Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ: “Năm 2019 là đến độ”

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ chia sẻ như vậy trong câu chuyện về giáo dục của năm mới, sau một năm đầy biến động của ngành giáo dục và cá nhân người đứng đầu.

 

Một trong những việc để đánh giá hoạt động của Bộ trưởng đã “đúng vai” hay chưa là xem xét xác định tầm nhìn và làm chiến lược như thế nào.

Về tầm nhìn, thông thường người ta hay nói tới “triết lý giáo dục”. Triết lý thì ở thời kỳ nào cũng có, được thể hiện dưới những hình thức khác nhau, xuất hiện cả ở trong Nghị quyết 29 về đổi mới giáo dục đào tạo rồi. Nhưng để có khái niệm thực sự cô đọng, phản ánh đầy đủ, thể hiện đường hướng mà mọi người nhìn vào đấy thực hiện thì Bộ GD-ĐT đang có đề tài nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu về triết lý giáo dục sẽ chuyển hóa thành những mục tiêu, nguyên lý… trong Luật Giáo dục sửa đổi tới đây.

Còn về chiến lược, khi bắt đầu nhiệm kỳ Bộ trưởng, tôi đã định nhờ chuyên gia xây dựng “chiến lược giáo dục đến năm 2035” – tương ứng với chiến lược kinh tế 2035 mà Ngân hàng Thế giới (WB) thiết kế. Cũng đã có dự thảo tham vấn ý kiến, nhưng sau đó tôi tự thấy “chưa phải”.

Tôi nhận ra rằng, có những đổi mới của ta chưa nhất quán, không “bền hơi” bởi thiếu nghiên cứu cơ bản, dự báo, đánh giá thực tiễn. Làm chiến lược mà không tính đến những thứ đó thì không thuyết phục.

Thực ra, những người thiết kế Nghị quyết 29 đã thấy rằng làm chính sách cần có nền tảng nghiên cứu bài bản; tôi cũng chỉ là người thực hiện thôi.

Chỉ có điều, khi làm Bộ trưởng, tôi đặt vấn đề nghiên cứu đàng hoàng.

Việt Nam không thiếu nhà khoa học giỏi, nhưng quy tụ chất xám của họ bằng hội thảo và toạ đàm vẫn là cách làm “thủ công”; trong khi đó, đặt hàng nghiên cứu thì họ sẽ có thời gian suy ngẫm, kết quả làm ra được nghiệm thu, có trách nhiệm với xã hội. Phải xác định, đây là sự hợp tác giữa các nhà nghiên cứu với cán bộ quản lý cục, vụ của Bộ GD-ĐT.

Hiện nay, có 39 đề tài cấp nhà nước trải rộng khắp các lĩnh vực để phục vụ cho thiết kế chính sách giáo dục. Lấy ví dụ như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học vừa rồi sớm hoàn thành vì đã có đề tài cấp nhà nước của Trường ĐH Luật Hà Nội về các vấn đề liên quan.

Hay như về thi cử, hiện nay cũng đang có một đề tài nghiên cứu, từ đó sẽ có câu trả lời nên bỏ hay giữ kỳ thi THPT quốc gia, cũng như giải quyết những câu hỏi khác. Hoặc với tự chủ đại học, hiện nay có 12 đề tài lớn nhỏ, tới đây sẽ có kết quả.

Như vậy, làm chính sách giáo dục phải đi từ căn bản, không thể “mì ăn liền”.

2019 là năm bản lề để làm chiến lược cho giai đoạn 2020-2030, cũng là tổng kết của 10 năm trước đó. Ngành giáo dục sẽ sơ kết, thông qua các hội thảo góp ý để đến 2020 có được một chiến lược giáo dục, phản ánh rất cao thực tiễn và tính khả thi đường lối đổi mới.

Xin lưu ý, chiến lược giáo dục nằm trong tổng thể chiến lược quốc gia, nhưng phải đóng vai trò nền tảng; bởi giáo dục đào tạo có tính “kép”: Con người vừa là phương tiện vừa là mục đích. Bởi vậy, khi làm chiến lược nói chung, nếu chỉ nhấn mạnh đến chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, không nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các vấn đề xã hội, đặc biệt là giáo dục thì không công bằng.

Cũng phải thấy rằng chỉ chăm chăm vào “chữa trị hiện tượng”, không nhìn ra cái lớn thì mãi sẽ không chữa trị được tận gốc.

Tôi sẵn sàng đổi mới và đang đổi mới. Động lực với tôi đúng ra là áp lực. Đó là áp lực giải quyết những vấn đề nhân dân, đất nước đang cần.

Sang năm mới này, đường hướng của tôi càng rõ ràng. Đó cũng là những thứ đã chuẩn bị âm thầm từ trước. Tôi nghĩ 2019 là đến độ!

Việc thứ hai trong năm 2019 mà tôi dành nhiều thời gian là chỉ đạo để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới.

Để có chương trình ban hành vào cuối năm 2018 là không hề dễ dàng. Tôi nhận việc đến giờ là hơn 2 năm, trong khi phác thảo cho chương trình đã có 6 năm. Vào việc là tôi “ăn ngủ với chương trình”, thuyết phục với các thầy tổng chủ biên đến các ủy viên khác, giải quyết các xung đột từ nhận thức đến quan điểm và lợi ích. Có những đêm, tôi thức trắng để tra Google đọc tài liệu; rồi trao đổi trực tiếp với các chuyên gia WB và UNESCO, găp riêng chuyên gia của WB, xin ý kiến mấy vòng…

Đến bây giờ, khi đã có chương trình rồi, chúng ta cần tiếp cận theo hướng “phát triển chương trình”. Tôi nhận thấy, đổi mới này phải đồng bộ; mỗi bước đổi mới chương trình là một bước đổi mới giáo viên, cơ sở vật chất….

Nếu đổi mới mà chỉ chăm chăm bồi dưỡng giáo viên, trong khi hiệu trưởng vẫn bình chân như vại là “thua”.  Quá trình này thành bại hay không, có vai trò rất lớn của hiệu trưởng.

Tạo cảm hứng được cho hiệu trưởng thì thành công một nửa; những vấn đề như quá tải sổ sách cho giáo viên, vào tay hiệu trưởng giỏi sẽ có cách xử lý. Chúng tôi xác định tổ chức bồi dưỡng để hiệu trưởng “ngấm” được đổi mới. Cứ ở đâu có hiệu trưởng giỏi thì có trường học tốt.

Áp lực dành cho nghề giáo trong một xã hội phát triển như hiện nay rất lớn.Xã hội kỳ vọng và đòi hỏi cao về chất lượng nguồn nhân lực, trong khi các điều kiện đảm bảo chưa tương xứng.

Tôi đã nhiều lần nói về thu nhập của giáo viên cũng như sự tôn trọng xứng đáng dành cho họ. Những việc này vẫn cần tiếp tục phải cải thiện trong thời gian tới bằng sự nỗ lực, chung tay của các cấp, các ngành, các địa phương và của toàn xã hội.

Còn những việc trong ngành giáo dục thì có thể làm ngay nhằm giảm áp lực, tạo ra động lực, giúp các thầy cô yên tâm công tác.

Cuối năm 2018, qua các buổi toạ đàm, đi gặp gỡ ở cơ sở, tôi đã trao đổi, lắng nghe giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục. Tới đây, Bộ sẽ cắt giảm tối đa những yêu cầu thủ tục hành chính, sổ sách để giáo viên chuyên tâm cho hoạt động chuyên môn; đồng thời xem xét để thi đua thiết thực, hiệu quả.

Tới đây, khi sửa luật viên chức công chức, trong lúc chưa làm được Luật Nhà giáo, ngành giáo dục cũng mạnh dạn đề nghị chế độ cho nhà giáo phải thay đổi. Viên chức với nhà giáo khác nhau về tính chất công việc mà áp dụng chung thì khó.

Về nhiệm vụ trọng tâm của năm 2019 là chuẩn bị cho chương trình mới, tôi đang chỉ đạo ứng dụng mạnh mẽ CNTT trong bồi dưỡng giáo viên.

Là nước đi sau, chúng ta cũng có cái hay nếu biết ứng dụng CNTT thành lợi thế đột phá trong giáo dục. Ở khâu đào tạo lại, Bộ sẽ đẩy mạnh bồi dưỡng từ xa, có trợ giảng, hướng dẫn, kiểm tra đánh giá; đặc biệt tăng cường tương tác, chia sẻ.

Ta có nhiều thầy cô giỏi với những sáng tạo trong thực tiễn. Làm sao để họ tự nghiên cứu và xây dựng nên bài giảng, chia sẻ với đồng nghiệp; để các thầy cô “học lẫn nhau” sẽ hay hơn là chỉ học một chiều với báo cáo viên.Cái đích cần đạt là giáo viên thấy thích rồi tự học. Tôi rất muốn làm sao để giáo viên thấy được rằng với đổi mới như thế, họ phải vươn lên, cùng với sự hỗ trợ của CNTT.

Vấn đề thừa thiếu giáo viên, lùng bùng trách nhiệm giữa các bên: giáo dục – nội vụ – địa phương cũng cần minh bạch ra. Tới đây, sẽ áp dụng phần mềm thống kê để thấy rõ trách nhiệm từng bên.

Bồi dưỡng giáo viên qua mạng là “đột phá”, nhưng quan trọng không kém là phải thúc đẩy vai trò của các trường sư phạm. Sắp xếp lại các trường này cũng là một nhiệm vụ trọng tâm của năm 2019.

Trước đây tôi nghĩ rằng để tuyển giáo viên, thì có thể lấy những người có trình độ cử nhân ở một số ngành khoa học khác, cùng với chứng chỉ sư phạm là ổn. Nhưng những sự việc về người thầy xảy ra thời gian qua cho thấy giáo viên của ta ít được đào tạo bài bản về khoa học tâm lý giáo dục.

Đào tạo sư phạm phải bài bản. Do đó, việc sắp xếp các trường sư phạm tới đây sẽ làm mạnh theo cách tiếp cận khác: Từ việc tuyển chọn sinh viên có tố chất phù hợp, tới cơ chế cấp học bổng trực tiếp cho người học thay vì cấp bù cho trường, rồi gắn chặt đào tạo với thực tập, có thể như cách của  ngành y…

Khi đổi mới giáo dục phổ thông, yếu tố cơ sở vật chất cũng rất quan trọng. Những lớp học đông đúc học sinh thì làm sao đổi mới được phương pháp? Ở các thành phố, khi xây dựng nhà cao tầng, ban đầu người ta cũng xin quy hoạch nghiêm túc, nhưng trong quá trình thực hiện thì cứ tận thu, dẫn đến thiếu thốn diện tích, đất đai cho giáo dục.

Nếu như tôi được quyền quy hoạch trường lớp, quy hoạch đội ngũ giáo viên cùng với chế độ kèm theo… thì câu chuyện sẽ đỡ hơn nhiều.

Khi bắt đầu làm Bộ trưởng, tôi đã nghĩ ngay đến chuyện quy hoạch mạng lưới trường lớp. Tôi cũng làm mẫu ở một tỉnh là Bình Định để nhân rộng các nơi; nhưng trong quá trình làm luật cứ “đẩy qua đẩy lại” nên chưa có thông tư hướng dẫn.

Dẫu vậy, ngành giáo dục vẫn cứ tổng kết những kinh nghiệm hay như Quảng Ninh, Yên Bái… và ban hành quy chuẩn trường lớp.Khi chưa làm được quy hoạch, tôi đưa ra thông tư về quy chuẩn trường lớp.

Như vậy, trong giáo dục phổ thông, các chuẩn giáo viên, chuẩn hiệu trưởng, chuẩn trường lớp sẽ là những công cụ quản trị, giám sát và thúc đẩy chất lượng giáo dục.

Có phóng viên hỏi trong năm 2019, Bộ trưởng nóng lòng tập trung vào tầng nào cho “ngôi nhà giáo dục”.

Tôi xác định không phải xây mới ngôi nhà từ đầu, mà làm theo hướng cải tạo căn bản.

“Ngôi nhà” cũng đã có những tầng đang tốt, thiết bị đẹp; mình nên kế thừa, trùng tu.

Ở “tầng mầm non” tôi chú ý chuẩn chỉnh lại mạng lưới trường lớp và tập trung cho đội ngũ thầy cô giáo. Đội ngũ này hiện đang vừa thiếu vừa yếu; các thầy cô được đào tạo theo hướng chăm nuôi trẻ, chứ chưa được chú trọng nhiều về giáo dục trẻ.

Ở “tầng giáo dục phổ thông”, trọng tâm là chuẩn bị tốt để thực chương trình mới vừa ban hành; như tôi đã trao đổi kỹ ở trên.

Việc đầu tư cho “tầng 3” – giáo dục đại học sẽ có kết quả sớm và rõ ràng hơn.

Tôi rất mừng là khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học sửa đổi thông qua đã xác định những nét mới mẻ trong 3 trụ cột của bậc đào tạo này: tự chủ về chương trình, tự chủ về nhân sự với sự tham gia sâu của hội đồng trường, cơ chế tài chính linh hoạt, thúc đẩy giáo dục ngoài công lập phát triển.

Những hành lang thông thoáng đó sẽ tạo động lực cho giáo dục đại học cạnh tranh. Sau một thời gian nhất định, chẳng hạn 5 năm, có thể trật tự giáo dục đại học sẽ thay đổi, số trường ít đi. Khi chất lượng các trường đã tốt lên thì khâu tuyển sinh không còn phải e ngại. Cùng với đó, tiến tới tách ra thi THPT nhẹ nhàng.

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ: Các kết quả nghiên cứu là hoàn toàn độc lập. Nhưng tôi đặt bài chứ không phải nghiên cứu “vô định”.

Có thể nói, tôi đã xây dựng được thiết chế với 2 tuyến: các cục, vụ có chức năng quản lý nhà nước phải lắng nghe và tìm kiếm chuyên gia; còn chuyên gia đừng có “nhìn trên, nhìn dưới” mà phải nói hết cỡ những gì mình nghiên cứu được.

Như vậy, cơ quan quản lý không chủ quan đưa ra chính sách vì mỗi khi giao việc là đều có đề tài nghiên cứu kèm theo; bên cạnh đó còn có hội đồng quốc gia giáo dục; trường hợp không thống nhất thì đã có các tiểu ban hội đồng quốc gia giáo dục làm “trọng tài”. Thời gian vừa qua tôi xử lý được nhiều vấn đề là nhờ họ.

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ: Không phải đến khi TƯ ra nghị quyết thì mới có chuyện thực hiện “nêu gương”. Đó là việc đó cần và phải làm cho thực chất. Ở đâu nêu gương thực chất thì ở đó bình yên, vì dân tinh lắm.

Nêu gương là một trách nhiệm, với ngành giáo dục thì càng đặc thù, vì những đòi hỏi nhất định về sự chuẩn mực. Không chỉ lãnh đạo có trách nhiệm nêu gương, các thầy cô, những người gần học trò càng phải vậy.

Nêu gương trong giáo dục rất giản dị, không phải ghê gớm, cao sang. Đó là thầy cô làm sao để học sinh tôn trọng. Để có được điều này, tôi nhấn mạnh tới tình yêu thương. Chỉ có tình yêu thương, thầy cô mới gần được trẻ con, không khiến mình xa vời vợi với học trò.

Còn “nêu gương” hiểu theo vai trò lãnh đạo thì 19 điều Đảng viên không được làm cũng đã có quy định rõ ràng rồi.

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ: Tôi có lo lắng, nhưng không chùn bước, cũng không thể “đẽo cày giữa đường”.

Trong giáo dục có cái rất hay là tính hướng thiện. Làm sao khơi gợi và lan toả được những điều đó, để hướng về tương lai, xây dựng ngôi nhà giáo dục tốt đẹp hơn, là điều tôi luôn trăn trở trong từng suy nghĩ, hành động của mình.

Thực hiện: Lê Hạnh

Ảnh: Đăng Lương – Lê Anh Dũng

Thiết kế: Diễm Anh

Nguồn: Vietnamnet.vn

Trả lời